top of page

Huỳnh Phương Đông

1925 - 2015

dnp-phuong-dong.jpg

Họa sĩ Huỳnh Phương Đông có tên khai sinh là Huỳnh Công Nhãn, sinh ngày 22.4.1925 tại Bình Hòa - Gia Định, nguyên quán Kế An - Kế Sách tỉnh Sóc Trăng. Học tại Trường Mỹ nghệ Thực hành Gia Định (École des Arts Appliqués de Gia-Dinh - Tuyển vào năm 1941) và Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam (1957-1963). Ông là họa sĩ - chiến sĩ tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Sau khi tốt nghiệp Trường Mỹ thuật thực hành Gia Định (1945), với tinh thần yêu nước, Huỳnh Phương Đông tham gia cuộc kháng chiến 9 năm chống thực dân khi quân Pháp trở lại toan xâm chiếm miền Nam. Khi cuộc Tổng khởi nghĩa ở Nam bộ nổ ra (1945), Huỳnh Phương Đông trở về Sóc Trăng. Vừa tham gia công tác cách mạng và tiếp tục hoạt động mỹ thuật.

Ông có biệt tài vẽ nên những cảnh tượng chiến trận ác liệt qua cái nhìn “nhè nhẹ”, với một bút pháp nhạy bén, linh động và lối cắt cảnh tự nhiên – kết quả của một quá trình sáng tác lâu dài ngoài mặt trận, nơi ông trải nghiệm hội họa bằng những phương tiện giải quyết nhanh như thuốc nước, phấn màu, chì than.
Ngay từ 1958, ông đã có một tranh sơn dầu đáng chú ý : Xưởng đóng tàu (Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam). Các tác phẩm thực hiện sau hòa bình : Tổ chiến đấu (1980, sơn mài), Tình đồng chí (1981, sơn dầu), Trận Ấp Bắc (1982, sơn dầu), Trận đánh phía nam cầu chữ Y, Mậu Thân 1968 (1985, sơn mài, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam), Trận La Ngà (1994, sơn dầu), Trận Bình Giã, tiêu diệt chiến đoàn M113 (1999, sơn dầu, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam) và một số tác phẩm điêu khắc”.

Vừa chiến đấu vừa sáng tác, họa sĩ sở hữu một sự nghiệp hội họa với nhiều tác phẩm nghệ thuật đa dạng về thể loại và có cũng biệt tài về ký họa chân dung. Họa sĩ Huỳnh Phương Đông đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (2007) với 3 họa phẩm nổi tiếng: Trận Ấp Bắc, Trận Bình Giả, Trận La Ngà, ngoài 2 Huân chương Kháng chiến, 5 Huy chương về Hoạt động Mỹ thuật và 3 Giải thưởng cao quý trong các lần Triển lãm Hội họa.

Tác phẩm đầu tiên ông vẽ là chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một năm sau, họa sĩ trở lại Sài Gòn cùng 3 học sinh của trường vẽ Gia Định để hoạt động bí mật: vẽ biểu ngữ, viết truyền đơn cổ động phong trào đấu tranh của nhân dân. Năm 1947, do hoàn cảnh chính trị, 4 anh em cùng vào khu ăn cứ Việt Minh ở Rừng Sác tham gia kháng chiến.

Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy với Hiệp định Genève được ký kết (1954), Huỳnh Phương Đông tập kết ra Bắc tiếp tục học Trường Cao Đẳng Mỹ thuật Hà Nội (1957-1963), chuyên ngành Điêu khắc. Nhiều tác phẩm của Huỳnh Phương Đông sau đó được gởi đi tham dự các cuộc triển lãm trong và ngoài nước: Đông Âu, Cuba, Trung Quốc,… nhận được sự đánh giá cao của giới chuyên môn.

Hoạ sĩ nhận công tác Trưởng phòng Hội họa Giải phóng, ủy viên phụ trách Tiểu ban Văn nghệ của Trung ương Cục miền Nam. Sau đó, họa sĩ là Đại úy phòng Tuyên huấn Cục Chính trị quân Giải phóng miền Nam (1969-1976), rồi là cán bộ phòng Mỹ thuật Giải phóng. Họa sĩ Huỳnh Phương Đông cũng từng giữ nhiều chức vụ quan trọng khác như: Phó Cục trưởng Cục Mỹ thuật, Bộ Văn hóa Thông tin rồi Ủy viên Ban Chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam (khóa I, II).

Xem tranh của họa sĩ Huỳnh Phương Đông, đa phần khán giả nhận định là tác phẩm của nghệ sĩ chan hòa chất thơ, rạng rỡ tính lạc quan mà thể hiện đúng nghĩa tính anh hùng ca, và đậm màu sử thi, thích hợp với bản chất của người Nam bộ.

Ông David Thomas, họa sĩ Mỹ, tác giả cuốn sách Huỳnh Phương Đông – góc nhìn chiến tranh và hòa bình (Huynh Phuong Dong – Visions of War and Peace) đã có lần tâm sự khi trở lại Việt Nam: “Tôi đã thật sự say mê những bức tranh của ông. Những bức ký họa chiến tranh của ông mang ‘sức nóng’ của một người trong cuộc và được ‘khúc xạ’ dưới con mắt lãng mạn của một nghệ sĩ tài ba… Dù không nói ra, tôi vẫn coi ông như cha của mình từ lâu. Ông là đại diện của nền hội họa Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ. Ông Đông là kho báu của Việt Nam”.

Cũng nói về nghệ sĩ hội họa Huỳnh Phương Đông, họa sĩ Vũ Giáng Hương, Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam nhận định: “Huỳnh Phương Đông có bút pháp phóng khoáng, tranh của ông mang màu sắc trong sáng; trong cảnh tàn phá vẫn có những mảng trời xanh thân yêu của đất nước – màu của niềm tin và hy vọng. Tình cảm với quê hương, lòng quyết tâm chiến đấu, khả năng diễn đạt của ông đã tạo nên những tác phẩm hội họa có giá trị nghệ thuật”.

Artworks

bottom of page